10 TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤT ĐAI
1. Tình huống 01: Hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực đất đai.
Nhà ông Quảng có diện tích đất vườn sát với Nhà văn hoá của thôn. Do Nhà văn hoá không có hàng rào nên ông Quảng đã sử dụng đất của Nhà văn hoá để trồng rau, lâu ngày thấy không ai có ý kiến gì về việc sử dụng đất đó nên ông Quảng đã làm hàng rào lên diện tích đất lấn của Nhà văn hoá thôn để sử dụng.
Hỏi: Hành vi của ông Quảng có thuộc hành vi bị nghiêm cấm không? Luật Đất đai năm 2024 (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định nghiêm cấm những hành vi nào trong lĩnh vực đất đai?
Trả lời:
1. Hành vi của ông Quảng có thuộc hành vi bị nghiêm cấm, cụ thể:
Khoản 1 Điều 11 Đất đai năm 2024 (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định nghiêm cấm “Lấn đất, chiếm đất, hủy hoại đất”.
2. Về các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực đất đai, Điều 11 Đất đai năm 2024 (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định nghiêm cấm những hành vi sau:
(1) Lấn đất, chiếm đất, hủy hoại đất.
(2) Vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước về đất đai.
(3) Vi phạm chính sách về đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(4) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái quy định của pháp luật về quản lý đất đai.
(5) Không cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin đất đai không chính xác, không đáp ứng yêu cầu về thời hạn theo quy định của pháp luật.
(6) Không ngăn chặn, không xử lý hành vi vi phạm pháp luật về đất đai.
(7) Không thực hiện đúng quy định của pháp luật khi thực hiện quyền của người sử dụng đất.
(8) Sử dụng đất, thực hiện giao dịch về quyền sử dụng đất mà không đăng ký với cơ quan có thẩm quyền.
(9) Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước.
(10) Cản trở, gây khó khăn đối với việc sử dụng đất, việc thực hiện quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
(11) Phân biệt đối xử về giới trong quản lý, sử dụng đất đai.
2. Tình huống 02: Quyền tiếp cận thông tin đất đai.
Ông Bình có nhu cầu nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại phường Minh Xuân. Sau một thời gian tìm kiếm ông đã tìm được mảnh đất ưng ý, ông có về nói chuyện với bạn của mình là ông Cảnh, sinh sống tại phường Minh Xuân về việc có ý định mua mảnh đất trên, ông Cảnh có nói cho ông biết mảnh đất đó đang nằm trong quy hoạch, muốn chắc chắn thì ông Bình phải xem cụ thể quy hoạch tại khu vực đó. Ông Bình muốn biết được quy hoạch khu vực đất dự định mua nhưng không biết ông có được đề nghị cơ quan có thẩm quyền cung cấp thông tin về quy hoạch không.
Hỏi: Ông Bình có quyền đề nghị cung cấp thông tin về quy hoạch sử dụng đất không? Luật Đất đai năm 2024 (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định Công dân được tiếp cận những thông tin đất đai nào?
Trả lời:
1. Ông Bình có quyền đề nghị cung cấp thông tin về quy hoạch sử dụng đất, vì điểm a khoản 1 Điều 24 Luật Đất đai năm 2024 (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định công dân được tiếp cận các thông tin về “Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, các quy hoạch có liên quan đến sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê duyệt”. Theo quy định trên, ông Bình được quyền tiếp cận thông tin về quy hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê duyệt. Việc tiếp cận thông tin đất đai thực hiện theo quy định của Luật Đất đai, pháp luật về tiếp cận thông tin và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 24 Luật Đất đai năm 2024 (đã được sửa đổi, bổ sung), công dân được tiếp cận các thông tin đất đai sau đây:
(1) Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, các quy hoạch có liên quan đến sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê duyệt;
(2) Kết quả thống kê, kiểm kê đất đai;
(3) Giao đất, cho thuê đất;
(4) Bảng giá đất đã được công bố;
(5) Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;
(6) Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp đất đai; kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai, kết quả xử lý vi phạm pháp luật về đất đai;
(7) Thủ tục hành chính về đất đai;
(8) Văn bản quy phạm pháp luật về đất đai;
(9) Các thông tin đất đai khác theo quy định của pháp luật.
3. Tình huống 03: Chính sách hỗ trợ đất ở cho người dân tộc thiểu số
Anh Páo là người dân tộc thiểu số, thuộc hộ nghèo, cư trú tại xã Hồ Thầu, tỉnh Tuyên Quang. Trước đây anh đã được bố, mẹ cho đất ở nhưng vì hoàn cảnh gia đình khó khăn nên anh đã bán diện tích đất ở đó đi, hiện tại anh không còn đất ở nữa mà sang ở nhờ nhà của anh trai. Trong một buổi tuyên truyền pháp luật do xã tổ chức anh có nghe tuyên truyền rằng Nhà nước có chính sách hỗ trợ đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số nên anh đã đến UBND xã đề nghị hỗ trợ để anh có đất ở.
Hỏi: Nhà nước có chính sách hỗ trợ đất ở cho người dân tộc thiểu số không, anh Páo có thuộc diện được Nhà nước hỗ trợ về đất ở không?
Trả lời:
Nhà nước có chính sách hỗ trợ đất ở cho người dân tộc thiểu số, cụ thể:
Điểm a Khoản 2 Điều 16 Luật Đất đai năm 2024 (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định trách nhiệm của Nhà nước về đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số như sau “Có chính sách hỗ trợ đất đai lần đầu cho cá nhân là người dân tộc thiểu số thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, phù hợp với phong tục, tập quán, tín ngưỡng, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng để bảo đảm ổn định cuộc sống như sau:
a) Giao đất ở trong hạn mức và được miễn, giảm tiền sử dụng đất”.
Theo quy định trên, anh Páo là người dân tộc thiểu số, thuộc diện hộ nghèo và sinh sống tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (xã Hồ Thầu, tỉnh Tuyên Quang), thuộc trường hợp được hưởng chính sách hỗ trợ đất đai lần đầu, cụ thể, được giao đất ở trong hạn mức và được miễn, giảm tiền sử dụng đất.
4. Tình huống 04: Đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ đất ở cho người dân tộc thiểu số
Bà Mỷ là người dân tộc thiểu số, thuộc hộ nghèo, cư trú tại xã Lũng Cú, tỉnh Tuyên Quang. Trước đây bà đã được Nhà nước giao đất ở theo chính sách hỗ trợ đất ở cho người dân tộc thiểu số nhưng vì hoàn cảnh gia đình khó khăn nên bà đã bán diện tích đất ở đó đi, hiện tại bà không còn đất ở và cũng không có loại đất nào nữa. Trong một buổi họp thôn, bà đã đề nghị thôn báo cáo với cơ quan có thẩm quyền để cấp đất ở cho bà. Nhận được ý kiến đề nghị của bà, Trưởng thôn nói rằng bà đã được Nhà nước cấp đất ở rồi, nay không còn đất ở nữa thì cũng không được Nhà nước cấp đất ở.
Hỏi: Quan điểm của Trưởng thôn là đúng hay sai, bà Mỷ có thuộc diện được Nhà nước hỗ trợ về đất ở nữa không?
Trả lời:
Quan điểm của Trưởng thôn là sai, bà Mỷ thuộc diện được Nhà nước hỗ trợ về đất ở, vì:
Điểm a Khoản 3 Điều 16 Luật Đất đai năm 2024 (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định trách nhiệm của Nhà nước về đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số như sau: “3. Có chính sách hỗ trợ đất đai để bảo đảm ổn định cuộc sống cho cá nhân là người dân tộc thiểu số đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất quy định tại khoản 2 Điều này nhưng nay không còn đất hoặc thiếu đất so với hạn mức mà thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi như sau:
a) Trường hợp không còn đất ở thì được giao tiếp đất ở, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất sang đất ở trong hạn mức giao đất ở và được miễn, giảm tiền sử dụng đất. Trường hợp thiếu đất ở thì cho phép chuyển mục đích sử dụng đất sang đất ở trong hạn mức giao đất ở và được miễn, giảm tiền sử dụng đất”.
Điểm a Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 102/2024/NĐ-CP ngày 30/7/2024 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định: “1. Việc hỗ trợ đất đai đối với cá nhân là người dân tộc thiểu số quy định tại khoản 3 Điều 16 Luật Đất đai thực hiện như sau:
a) Đối với trường hợp không còn đất ở thì được giao đất ở hoặc được chuyển mục đích sử dụng đất từ loại đất khác sang đất ở; người sử dụng đất được miễn tiền sử dụng đất đối với diện tích trong hạn mức giao đất ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh”.
Theo các quy định trên, bà Mỷ là người dân tộc thiểu số, thuộc diện hộ nghèo và sinh sống tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (xã Lũng Cú, tỉnh Tuyên Quang), mặc dù đã được giao đất ở nhưng hiện không còn đất ở và loại đất nào khác thì bà Mỷ thuộc trường hợp được hỗ trợ về đất ở, cụ thể được giao đất ở được miễn tiền sử dụng đất đối với diện tích trong hạn mức giao đất ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
5. Tình huống 05: Đối tượng người dân tộc thiểu số được hưởng chính sách hỗ trợ đất nông nghiệp
Ông Dử là người dân tộc thiểu số, thuộc hộ cận nghèo, cư trú tại xã Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang. Ông đã có đất ở nhưng không có đất nông nghiệp để sản xuất. Trong một buổi đi rừng cùng mấy ông cùng thôn, ông Dử có nói chuyện là sẽ đề nghị Nhà nước cấp đất nông nghiệp cho để có đất sản xuất. nghe vậy, ông Quảng nói rằng, Nhà nước chỉ có chính sách hỗ trợ đất nông nghiệp cho người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo thôi, không có chính sách hỗ trợ cho người thuộc hộ cận nghèo.
Hỏi: Quan điểm của ông Quảng là đúng hay sai, ông Dử thuộc hộ cận nghèo có được Nhà nước hỗ trợ đất nông nghiệp không?
Trả lời:
Quan điểm của ông Quảng sai, vì:
Điểm c Khoản 2 Điều 16 Luật Đất đai năm 2024 (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định trách nhiệm của Nhà nước về đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số như sau “Có chính sách hỗ trợ đất đai lần đầu cho cá nhân là người dân tộc thiểu số thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, phù hợp với phong tục, tập quán, tín ngưỡng, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng để bảo đảm ổn định cuộc sống như sau:
c) Giao đất nông nghiệp trong hạn mức không thu tiền sử dụng đất”.
Theo quy định trên, Nhà nước có chính sách giao đất nông nghiệp trong hạn mức không thu tiền sử dụng đất cho cá nhân là người dân tộc thiểu số thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Ông Dử là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (xã Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang), mặc dù thuộc diện hộ cận nghèo vẫn thuộc trường hợp được hỗ trợ đất nông nghiệp.
6. Tình huống 06: Xử phạt vi phạm hành chính hành vi không thực hiện đăng ký biến động đất đai
Ông Bình có quyền sử dụng 100 m2 đất ở tại đô thị tại phường Minh Xuân, do có nhu cầu chuyển về sinh sống với con trai nên ông Bình đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà An, việc chuyển nhượng được hai bên lập hợp đồng công chứng tại tổ chức hành nghề công chứng vào ngày 01/3/2025. Sau khi nhận chuyển nhượng, do bận đi làm ăn xa nên bà An chưa đi làm thủ tục đăng ký biến động để sang tên quyền sử dụng, đến ngày 01/11/2025 bà An mới đến cơ quan có thẩm quyền để thực hiện đăng ký biến động. Tại đây bà An được thông báo là cơ quan có thẩm quyền sẽ đăng ký biến động cho bà nhưng bà sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính do không thực hiện đăng ký biến động đất đai trong thời hạn quy định.
Hỏi: Hành vi của bà An không thực hiện đăng ký biến động đất đai có bị xử phạt vi phạm hành chính hay không, mức xử phạt như thế nào? Pháp luật quy định như thế nào về thời hạn người sử dụng đất phải đăng ký biến động tại cơ quan có thẩm quyền?
Trả lời:
1. Hành vi của bà An không thực hiện đăng ký biến động đất đai là hành vi vi phạm hành chính, sẽ bị xử phạt theo quy định tại Khoản 2 Điều 16 Nghị định số 123/2024/NĐ-CP, ngày 04/10/2024 của Chính phủ Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, cụ thể, phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi không thực hiện đăng ký biến động đất đai.
2. Về thời hạn người sử dụng đất phải đăng ký biến động tại cơ quan có thẩm quyền, Khoản 3 Điều 133 Luật Đất đai năm 2024 (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có biến động, người sử dụng đất phải đăng ký biến động tại cơ quan có thẩm quyền. Theo đó, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Bình cho bà An được thực hiện từ ngày 01/3/2025, bà An có thời hạn 30 ngày (trước ngày 01/4/2025) để làm thủ tục đăng ký biến động (sang tên quyền sử dụng đất). Ngày 01/11/2025 bà An mới đến cơ quan có thẩm quyền để đăng ký biến động, đã quá thời hạn 30 ngày, do đó bà An sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính.
7. Tình huống 07: Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không đăng ký biến động đất đai
Ngày 15/8/2025, ông Quang làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Hải tại tổ chức hành nghề công chứng. Ngày 01/11/2025 ông Hải đến cơ quan có thẩm quyền để thực hiện đăng ký biến động đất đai, sang tên quyền sử đất. Khi đến làm thủ tục ông Hải được thông báo là cơ quan có thẩm quyền sẽ đăng ký biến động cho ông nhưng sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính do thực hiện không đăng ký biến động đất đai trong thời hạn quy định với mức phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Thấy vậy, ông Hải đã về bảo ông Quang phải nộp phạt vì ông Quang là người đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đất của ông Quang có biến động nên ông phải nộp phạt, ông Quang không nhất trí mà nói rằng ông Hải mới là người phải nộp phạt vì đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và có trách nhiệm đăng ký biến động đất đai.
Hỏi: Trong trường hợp này ông Quang hay ông Hải phải nộp tiền phạt vi phạm hành chính?
Trả lời:
Trong trường hợp này ông Hải phải nộp tiền phạt vi phạm hành chính, vì:
Điểm c Khoản 5 Điều 5 Nghị định số 123/2024/NĐ-CP, ngày 04/10/2024 của Chính phủ Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai quy định như sau:
“5. Việc xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp có giao dịch về chuyển quyền sử dụng đất, cho thuê, cho thuê lại, góp vốn bằng quyền sử dụng đất thực hiện như sau:
c) Trường hợp chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không đăng ký biến động đất đai thì xử phạt vi phạm hành chính đối với bên nhận chuyển quyền sử dụng đất”.
Theo quy định trên, trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không đăng ký biến động đất đai thì xử phạt vi phạm hành chính đối với bên nhận chuyển quyền sử dụng đất. Trong trường hợp này ông Hải là người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, do đó, ông Hải là người phải nộp tiền phạt vi phạm hành chính.
8. Tình huống 08: Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất mà không đăng ký biến động đất đai
Nhà ông Thanh có mảnh ruộng gần với mấy đám ruộng nhà ông Bảo, ngược lại nhà ông Bảo cũng có mảnh ruộng gần với mấy đám ruộng nhà ông Thanh. Để thuận tiện cho việc canh tác, ông Thanh và ông Bảo đã thống nhất đổi ruộng cho nhau. Ngày 01/8/2024, Thanh và ông Bảo đã đến tổ chức hành nghề công chứng làm hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp. Ngày 01/10/2025 ông Thanh và ông Bảo đã đến cơ quan có thẩm quyền để đăng ký biến động đất đai, sang tên quyền sử đất chuyển đổi. Cơ quan có thẩm quyền đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính ông Thanh và ông Bảo về hành vi “Không thực hiện đăng ký biến động đất đai”. Ông Thanh và ông Bảo không nhất trí vì cho rằng hai ông chỉ thực hiện một hành vi vi phạm hành chính nên chỉ xử phạt một người thôi, việc xử phạt cả hai người là không đúng quy định của pháp luật.
Hỏi: Việc cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cả ông Thanh và ông Bảo là đúng hay sai? Tại sao?
Trả lời:
Việc cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cả ông Thanh và ông Bảo là đúng, vì:
Điểm b Khoản 5 Điều 5 Nghị định số 123/2024/NĐ-CP, ngày 04/10/2024 của Chính phủ Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai quy định như sau:
“5. Việc xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp có giao dịch về chuyển quyền sử dụng đất, cho thuê, cho thuê lại, góp vốn bằng quyền sử dụng đất thực hiện như sau:
b) Trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất mà không đăng ký biến động đất đai thì xử phạt vi phạm hành chính đối với cả hai bên chuyển đổi quyền sử dụng đất;
Theo quy định trên, trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất mà không đăng ký biến động đất đai thì xử phạt vi phạm hành chính đối với cả hai bên chuyển đổi quyền sử dụng đất. Trong trường hợp này ông Thanh và ông Bảo chuyển đổi quyền sử dụng đất cho nhau nhưng không thực hiện đăng ký biến động đất đai trong thời hạn quy định, do đó cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với cả hai ông là đúng.
9. Tình huống 09: Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi “chuyển đất trồng lúa sang loại đất khác trong nhóm đất nông nghiệp”
Bà Thành có 0,3 héc ta đất trồng lúa, do diện tích đất trồng lúa đó vào mùa khô việc lấy nước về để canh tác khó khăn nên bà đã đổ thêm đất vào, chuyển toàn bộ diện tích đất trồng lúa đó sang trồng bưởi.
Hỏi: Việc bà Thành đổ đất, chuyển toàn bộ diện tích đất trồng lúa sang trồng bưởi là đúng hay sai? Hành vi đó có bị xử phạt vi phạm hành chính không?
Trả lời:
Việc bà Thành đổ đất, chuyển toàn bộ diện tích đất trồng lúa sang trồng bưởi là sai. Hành vi đó sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định, cụ thể:
Điểm a Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 123/2024/NĐ-CP, ngày 04/10/2024 của Chính phủ Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai quy định như sau:
“1. Hành vi chuyển đất trồng lúa sang loại đất khác trong nhóm đất nông nghiệp thì hình thức và mức xử phạt như sau:
a) Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với diện tích đất dưới 0,5 héc ta”.
Theo đó, hành vi của bà Thành chuyển diện tích 0,3 héc ta đất trồng lúa sang đất trồng cây lâu năm sẽ bị xử phạt bằng hình thức phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.
10. Tình huống 10: Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi “chuyển đất trồng lúa sang đất ở thuộc địa giới hành chính của xã”
Ông Hảo có 0,08 héc ta đất trồng lúa tại xã Trung Sơn, tỉnh Tuyên Quang, do diện tích đất trồng lúa gần với khu dân cư và thuận tiện đường đi lại nên vào tháng 10/2020 ông đã đổ đất vào diện tích ruộng đó, xây dựng nhà ở và cho con trai ra ở riêng tại ngôi nhà mới xây đó.
Hỏi: Việc ông Hảo đổ đất, xây dựng nhà ở trên diện tích đất trồng lúa có phải là hành vi vi phạm hành chính không, có bị xử phạt vi phạm hành chính và thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả không?
Trả lời:
Việc ông Hảo đổ đất, xây dựng nhà ở trên diện tích đất trồng lúa là hành vi vi phạm hành chính và sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định, cụ thể:
Điểm d Khoản 3 Điều 8 Nghị định số 123/2024/NĐ-CP, ngày 04/10/2024 của Chính phủ Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai quy định như sau:
“3. Hành vi chuyển đất trồng lúa sang đất ở thuộc địa giới hành chính của xã thì hình thức và mức phạt như sau:
d) Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng đối với diện tích đất từ 0,05 héc ta đến dưới 0,1 héc ta;.
Theo đó, hành vi của ông Hảo chuyển diện tích 0,08 héc ta đất trồng lúa sang đất ở thuộc địa giới hành chính của xã sẽ bị xử phạt bằng hình thức phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng. Ngoài ra, ông Hảo còn phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả “Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm”, theo đó phải tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng, trả lại đúng mục đích sử dụng đất ban đầu là đất trồng lúa./.
NGƯỜI BIÊN SOẠN: Vũ Thị Minh Hiền