1. Tình huống 01: Hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo
Chị Linh theo đạo Tin lành kết hôn với anh Hoan theo đạo Phật giáo. Sau khi kết hôn, mỗi khi chị Linh sinh hoạt tôn giáo anh Hoan đều thấy không thoải mái nên đã yêu cầu chị Linh bỏ đạo Tin lành để theo đạo Phật giáo cùng chồng và gia đình bên chồng, chị Linh không đồng ý nên cuộc sống gia đình thường xuyên căng thẳng, thậm chí, nhiều lần anh Hoan còn cản trở không cho chị Linh sinh hoạt tôn giáo.
Hỏi: Hành vi của anh Hoan có thuộc trường hợp bị nghiêm cấm theo pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo không? Luật Tín ngưỡng, tôn giáo nghiêm cấm những hành vi nào trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo?
Trả lời:
1. Hành vi của anh Hoan thuộc trường hợp bị nghiêm cấm theo pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo không. Cụ thể, khoản 2 Điều 5 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định nghiêm cấm “Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo”.
2. Về các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, Điều 5 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định nghiêm cấm những hành vi sau:
(1) Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
(2) Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo.
(3) Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo.
(4) Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo:
- Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường;
- Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;
- Cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân;
- Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
(5) Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi.
2. Tình huống 02: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người
Chị Hoài theo đạo Tin Lành, chuẩn bị kết hôn với anh Trung theo đạo Tôn giáo. Chị Hoài lo lắng sau khi kết hôn, về chung sống một nhà vợ chồng dễ phát sinh mâu thuẫn do khác nhau về tôn giáo, về thực hành lễ nghi giáo lý, giáo luật. Biết được băn khoăn của chị Hoài, anh Trung đã động viên chị, bảo chị yên tâm vì anh sẽ tạo điều kiện hết mức để chị được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình.
Hỏi: Pháp luật quy định như thế nào về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người?
Trả lời:
Điều 6 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người như sau:
- Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
- Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo.
- Mỗi người có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo. Người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
- Chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác.
- Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Tình huống 03: Đăng ký hoạt động tín ngưỡng
Vào dịp Tết nguyên đán, Đình làng B dự kiến tổ chức lễ hội, bao gồm phần lễ cúng tế trong đình và phần hội với các trò chơi dân gian như tung còn, kéo co. Ban Quản lý Đình có họp bàn về việc tổ chức lễ hội, ông Thành thì cho rằng cần phải đăng ký với UBND cấp xã về việc tổ chức lễ hội, còn ông Hoa thì cho rằng không cần phải đăng ký.
Hỏi: Để tổ chức lễ hội thì Ban quản lý Đình có phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền không? Trình tự, thủ tục đăng ký được quy định như thế nào?
Trả lời:
1. Để tổ chức lễ hội thì Ban quản lý Đình phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền, vì:
Khoản 1 Điều 12 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định “Hoạt động tín ngưỡng của cơ sở tín ngưỡng phải được đăng ký, trừ cơ sở tín ngưỡng là nhà thờ dòng họ”.
Theo quy định trên thì hoạt động tín ngưỡng của cơ sở tín ngưỡng phải được đăng ký theo quy định.
2. Về trình tự, thủ tục đăng ký, theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 12 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 được thực hiện như sau:
- Người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm gửi văn bản đăng ký đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở tín ngưỡng chậm nhất là 30 ngày trước ngày cơ sở tín ngưỡng bắt đầu hoạt động tín ngưỡng. Văn bản đăng ký nêu rõ tên cơ sở tín ngưỡng, các hoạt động tín ngưỡng, nội dung, quy mô, thời gian, địa điểm diễn ra hoạt động.
- Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký hợp lệ; trường hợp từ chối đăng ký phải nêu rõ lý do.
- Hoạt động tín ngưỡng không có trong văn bản đã được đăng ký thì người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm đăng ký bổ sung chậm nhất là 20 ngày trước ngày diễn ra hoạt động tín ngưỡng.
4. Tình huống 04: Báo cáo về việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng định kỳ
Vào dịp Tết nguyên đán, Đền A tổ chức lễ hội thờ mẫu; việc tổ chức lễ hội này được tổ chức định kỳ hằng năm và có quy mô tổ chức trong một xã. Để chuẩn bị cho việc tổ chức lễ hội, ông Lập, Trưởng Ban quản lý Đền A thông báo với thành viên Ban Quản lý đền là sẽ làm văn bản thông báo với Uỷ ban nhân dân xã về việc tổ chức lễ hội. Nghe ông Lập thông báo như vậy, bà Thoan nói rằng việc tổ chức lễ hội của Đền được tổ chức định kỳ hằng năm, thế nên không phải thông báo với Uỷ ban nhân dân xã.
Hỏi: Ý kiến của bà Thoan có đúng không; việc tổ chức lễ hội định kỳ có phải báo cáo cơ quan có thẩm quyền không?
Trả lời:
Ý kiến của bà Thoan là sai, việc tổ chức lễ hội định kỳ có phải báo cáo cơ quan có thẩm quyền, cụ thể:
Điểm a Khoản 1 Điều 13 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định về việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng định kỳ như sau:
“1. Người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng diễn ra định kỳ chậm nhất là 20 ngày trước ngày tổ chức lễ hội đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định sau đây:
a) Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức lễ hội có trách nhiệm tiếp nhận thông báo đối với lễ hội tín ngưỡng có quy mô tổ chức trong một xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là xã)”.
Theo quy định trên, do lễ hội tín ngưỡng có quy mô tổ chức trong một xã, nên ban quản lý Đền A có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng diễn ra định kỳ chậm nhất là 20 ngày trước ngày tổ chức lễ hội đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức lễ hội.
5. Tình huống 05: Chi thăm hỏi, tặng quà hộ dân tộc thiểu số nghèo sinh sống tại các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Ông Dìn thuộc hộ nghèo, dân tộc thiểu số, sinh sống tại xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang. Hôm đó cùng đi làm đồng với bà Mỷ, bà Mỷ có nói với ông Dìn rằng Nhà nước có chính sách thăm hỏi, tặng quà nhân dịp Tết Nguyên Đán, Tết hoặc Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số đối với hộ dân tộc thiểu số nghèo sinh sống tại các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số; như gia đình ông Dìn cũng thuộc diện được hưởng chính sách này.
Hỏi: Ý kiến của bà Mỷ có đúng không; nếu có thì chính sách đó được quy định như thế nào?
Trả lời:
Ý kiến của bà Mỷ là đúng, cụ thể:
Điểm g khoản 1 Điều 12a Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 127/2024/NĐ-CP ngày 10/10/2024 của Chính phủ) quy định đối tượng thụ hưởng chính sách chi thăm hỏi, chúc mừng, tặng quà, động viên, gặp mặt đối với một số đơn vị, cá nhân là người dân tộc thiểu số, gồm “Hộ dân tộc thiểu số nghèo sinh sống tại các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số”.
Mức thăm hỏi, tặng quà được quy định tại Điểm c khoản 2 Điều 12a Nghị định số 05/2011/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung) như sau: “Thăm hỏi, tặng quà nhân dịp Tết Nguyên Đán, Tết hoặc Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số, nhân dịp Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Ủy ban Dân tộc đi thăm, làm việc tại các địa phương đối với đối tượng quy định tại điểm g của khoản 1 Điều này; thăm hỏi, động viên, tặng quà đối với đối tượng quy định tại điểm h khoản 1 Điều này. Mức chi tối đa: 1.000.000 đồng/người, hộ/lần; không quá 3.000.000 đồng/người, hộ/năm”.
Theo các quy định trên, Nhà nước có chính sách thăm hỏi, tặng quà cho hộ dân tộc thiểu số nghèo sinh sống tại các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, mức chi tối đa: 1.000.000 đồng/người, hộ/lần; không quá 3.000.000 đồng/người, hộ/năm.
6. Tình huống 06: Chi thăm hỏi, động viên người dân tộc thiểu số, hộ dân tộc thiểu số ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số bị thiệt hại do dịch bệnh
Đợt dịch tả lợn châu phi vừa rồi gây thiệt hại nặng nề cho các hộ dân của xã X. Trong buổi sinh hoạt Chi hội nông dân bàn về giải pháp khắc phục thiệt hại do dịch bệnh gây ra và phục hồi sản xuất, ông An - Chi hội trưởng Chi hội nông dân có thông tin cho hội viên được biết, Nhà nước sẽ hỗ trợ một phần kinh phí để tiêu hủy vật nuôi bị dịch bệnh và hỗ trợ đối với vật nuôi bị thiệt hại. Nghe ông An nói vậy mọi người thấy yên tâm hơn vì đã có đồng hành của Nhà nước giúp người dân khắc phục thiệt hại. Bà Bình nghe vậy cũng thông tin thêm, bà còn nghe nói Chính phủ mới ban hành quy định về chi thăm hỏi, động viên người dân tộc thiểu số, hộ dân tộc thiểu số ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số bị thiệt hại do dịch bệnh.
Hỏi: Thông tin bà Bình đưa ra có đúng không, nếu có thì mức chi được quy định như thế nào?
Trả lời:
Thông tin bà Bình đưa ra là đúng. Ngày 10/10/2024 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 127/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về Công tác dân tộc, trong đó bổ sung Điều 12a quy định về chi thăm hỏi, chúc mừng, tặng quà, động viên, gặp mặt đối với một số đơn vị, cá nhân là người dân tộc thiểu số.
Tại điểm h khoản 1 Điều 12a quy định đối tượng thụ hưởng chính sách chi thăm hỏi, chúc mừng, tặng quà, động viên, gặp mặt đối với một số đơn vị, cá nhân là người dân tộc thiểu số, gồm “Người dân tộc thiểu số, hộ dân tộc thiểu số ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh, hoả hoạn hoặc khó khăn đột xuất khác”.
Mức thăm hỏi, động viên được quy định tại Điểm c khoản 2 Điều 12a Nghị định số 05/2011/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung) như sau: “Thăm hỏi, tặng quà nhân dịp Tết Nguyên Đán, Tết hoặc Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số, nhân dịp Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Ủy ban Dân tộc đi thăm, làm việc tại các địa phương đối với đối tượng quy định tại điểm g của khoản 1 Điều này; thăm hỏi, động viên, tặng quà đối với đối tượng quy định tại điểm h khoản 1 Điều này. Mức chi tối đa: 1.000.000 đồng/người, hộ/lần; không quá 3.000.000 đồng/người, hộ/năm.
Riêng thăm hỏi, động viên đối với đối tượng quy định tại điểm h khoản 1 Điều này bị thiệt hại về người, mức chi: 5.000.000 đồng/hộ/lần; không quá 10.000.000 đồng/hộ/năm”.
Theo các quy định trên, Nhà nước có chính sách thăm hỏi, động viên người dân tộc thiểu số, hộ dân tộc thiểu số ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số bị thiệt hại do dịch bệnh, mức chi tối đa: 1.000.000 đồng/người, hộ/lần; không quá 3.000.000 đồng/người, hộ/năm; trường hợp bị thiệt hại về người mức chi: 5.000.000 đồng/hộ/lần; không quá 10.000.000 đồng/hộ/năm.
7. Tình huống 07: Chi chúc mừng, tặng quà thầy giáo ưu tú là người dân tộc thiểu số nhân dịp Tết Nguyên Đán, Tết hoặc Lễ hội truyền thống
Nhân dịp kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam, Trường trung học phổ thông Q tổ chức gặp mặt, tri ân các thế hệ giáo viên của nhà trường. Tại buổi gặp mặt, cô Phương đã chúc mừng thầy Hỷ - là thầy giáo ưu tú người dân tộc thiểu số vì Nhà nước mới có chính sách về chúc mừng, tặng quà thầy giáo ưu tú là người dân tộc thiểu số nhân dịp Tết Nguyên Đán, Tết hoặc Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số, nhân dịp Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Ủy ban Dân tộc đi thăm, làm việc tại các địa phương. Nghe cô Phương nói vậy, mọi người đều ngạc nhiên vì lần đầu được biết thông tin này.
Hỏi: Thông tin cô Phương đưa ra có chính xác không; nếu có thì chính sách đó được quy định như thế nào?
Trả lời:
Thông tin cô Phương đưa ra là chính xác. Ngày 10/10/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 127/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc. Tại điểm d khoản 1 Điều 12a Nghị định số 05/2011/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định đối tượng thụ hưởng chính sách chi thăm hỏi, chúc mừng, tặng quà, động viên, gặp mặt đối với một số đơn vị, cá nhân là người dân tộc thiểu số, gồm “Nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú, giáo sư, phó giáo sư là người dân tộc thiểu số”.
Mức chúc mừng, tặng quà được quy định tại Điểm c khoản 2 Điều 12a Nghị định số 05/2011/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung) như sau: “Chúc mừng, tặng quà nhân dịp Tết Nguyên Đán, Tết hoặc Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số, nhân dịp Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Ủy ban Dân tộc đi thăm, làm việc tại các địa phương đối với đối tượng quy định tại điểm d, đ, e khoản 1 Điều này. Mức chi tối đa: 1.000.000 đồng/người/lần; không quá 3.000.000 đồng/người/năm”.
Theo các quy định trên, Nhà nước có chính sách chúc mừng, tặng quà cho nhà giáo ưu tú là người dân tộc thiểu số, mức chi tối đa: 1.000.000 đồng/người/lần; không quá 3.000.000 đồng/người/năm.
8. Tình huống 08: Khái niệm “Dân tộc thiểu số”, “Dân tộc đa số”, “Dân tộc thiểu số rất ít người”
Trong một buổi sinh hoạt ngoại khoá của các em học sinh lớp 12 trường trung học phổ thông dân tộc nội trú với chủ đề “dân tộc thiểu số”, mặc dù có nhiều ý kiến trao đổi, thảo luận nhưng vẫn chưa đến được thống nhất về cách hiểu thế nào là “Dân tộc thiểu số”, “Dân tộc đa số”, “Dân tộc thiểu số rất ít người”, bạn thì cho rằng dân tộc thiểu số là dân tộc chiếm tỷ lệ ít trong số các dân tộc, dân tộc đa số là dân tộc có số dân chiếm tỷ lệ cao trong số các dân tộc; có ý kiến lại cho rằng dân tộc đa số phải chiếm trên 50% tổng dân số của cả nước, còn dân tộc thiểu số tỷ lệ sẽ ít hơn 50% tổng dân số của cả nước.
Hỏi: Pháp luật giải thích như thế nào về khái niệm “Dân tộc thiểu số”, “Dân tộc đa số”, “Dân tộc thiểu số rất ít người”?
Trả lời:
Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về Công tác dân tộc (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 127/2024/NĐ-CP ngày 10/10/2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về Công tác dân tộc) giải thích về khái niệm “Dân tộc thiểu số”, “Dân tộc đa số”, “Dân tộc thiểu số rất ít người”, như sau:
1. “Dân tộc thiểu số” là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. “Dân tộc đa số” là dân tộc có số dân chiếm trên 50% tổng dân số của cả nước, theo điều tra dân số quốc gia.
3. “Dân tộc thiểu số rất ít người” là dân tộc có số dân dưới 10.000 người.
9. Tình huống 09: Tiêu chí xác định dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 – 2030
Chị Thanh là công chức Phòng Văn hoá – xã hội của UBND xã K; chị được phân công tham mưu thực hiện công tác dân tộc. Chị được biết hiện nay Chính phủ đã ban hành Tiêu chí xác định các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 – 2030 nhưng không biết quy định đó cụ thể như thế nào và việc xác định dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 – 2030 dựa trên những tiêu chí nào.
Hỏi: Việc xác định dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 – 2030 dựa trên những tiêu chí nào?
Trả lời:
Ngày 29/9/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 255/2025/NĐ-CP về xác định các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026-2030, Điều 4 của Nghị định quy định về Tiêu chí xác định các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 – 2030, cụ thể như sau:
- Dân tộc còn gặp nhiều khó khăn là dân tộc có tỷ lệ nghèo đa chiều lớn hơn tỷ lệ nghèo đa chiều dân tộc thiểu số chung cả nước.
- Dân tộc có khó khăn đặc thù là dân tộc có dân số trong phạm vi toàn quốc dưới 10.000 người theo dữ liệu quản lý dân cư và đáp ứng ít nhất 01 trong 02 tiêu chí sau:
+ Có tỷ lệ nghèo đa chiều lớn hơn tỷ lệ nghèo đa chiều dân tộc thiểu số chung cả nước;
+ Có dân số trong phạm vi toàn quốc theo dữ liệu quản lý dân cư giảm so với dân số trong phạm vi toàn quốc theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019.
10. Tình huống 10: Quy trình xác định các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 – 2030
Trong một buổi họp giao ban công tác văn hoá – xã hội, chị Bình là công chức Phòng Văn hoá – xã hội của UBND xã P có ý kiến rằng theo quy định mới thì Chủ tịch UBND cấp tỉnh có thẩm quyền phê duyệt danh sách các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 - 2030 trên địa bàn tỉnh.
Hỏi: Ý kiến của chị Bình có đúng không? Quy trình xác định các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 – 2030 được quy định như thế nào?
Trả lời:
Ý kiến của chị Bình là sai. Quy trình xác định các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 – 2030 được quy định tại Điều 5 Nghị định số 255/2025/NĐ-CP về xác định các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026-2030, cụ thể như sau:
1. Cấp xã: Ủy ban nhân dân các xã, phường, đặc khu tổ chức rà soát thống kê số liệu về tổng dân số, tổng số hộ, số hộ nghèo, hộ cận nghèo của từng dân tộc tại địa bàn theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị định số 255/2025/NĐ-CP, gửi kết quả gồm 01 hồ sơ điện tử và 01 hồ sơ giấy về Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo triển khai, tổ chức thực hiện. Trong đó:
a) Số liệu rà soát về dân số của từng dân tộc tại địa bàn được thống kê theo dữ liệu quản lý dân cư trong vòng 15 ngày kể từ ngày 15/11/2025;
b) Số liệu rà soát tổng số hộ, số hộ nghèo, hộ cận nghèo của từng dân tộc tại địa bàn được thống kê trên kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2024.
2. Cấp tỉnh: Sau khi nhận được đủ báo cáo rà soát của Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo các cơ quan liên quan tổng hợp, rà soát, thẩm định và chịu trách nhiệm toàn diện về số liệu báo cáo theo Mẫu số 02 ban hành kèm theo Nghị định số 255/2025/NĐ-CP, gửi kết quả gồm 01 hồ sơ điện tử và 01 hồ sơ giấy về Bộ Dân tộc và Tôn giáo trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày 15/11/2025.
3. Cấp trung ương (Bộ Dân tộc và Tôn giáo): Trong vòng 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ báo cáo về số liệu tổng dân số, tổng số hộ, số hộ nghèo, hộ cận nghèo của từng dân tộc của các tỉnh, Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo căn cứ quy định tại Điều 4 của Nghị định số 255/2025/NĐ-CP chỉ đạo rà soát, tổng hợp và ban hành Quyết định phê duyệt danh sách các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 - 2030 trên phạm vi toàn quốc.
Theo đó, thẩm quyền phê duyệt danh sách các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 - 2030 thuộc về Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo./.
NGƯỜI BIÊN SOẠN: Vũ Thị Minh Hiền